Chương 21: Trong thời đại này ai cầm Bát Sắt chính là vinh quang
26/04/2025
10
8.7
Chương 21: Trong thời đại này ai cầm Bát Sắt chính là vinh quang
Vào thời kỳ bao cấp, khi cả nước còn chìm trong cảnh thiếu thốn trăm bề, đời sống về đêm ở các vùng quê như xã đội Đầu Rìu vốn đã đơn sơ lại càng thêm phần tẻ nhạt. Không điện, không ti-vi, không radio ba món xa xỉ mà dân làng chỉ dám mơ ước. Thứ ánh sáng duy nhất le lói trong những căn nhà tranh vách lá xiêu vẹo là ánh đèn dầu lập lòe, lay lắt như chính nhịp sống của người dân nơi đây. Những nhà nào khá giả một chút thì sắm được chiếc đèn măng-xông, ánh sáng mạnh hơn, trắng hơn nhưng cũng là thứ ánh sáng hiếm hoi, như ánh trăng trong đêm tối.
Còn đèn điện ư? Chuyện đó đối với dân quê thời ấy chẳng khác gì chuyện cổ tích. Có chăng thì chỉ vài khu vực trung tâm thị trấn mới may mắn có điện, nhưng cũng chỉ sáng được một đôi giờ vào buổi tối, rồi lại tắt ngúm trong im lặng.
Bởi vậy, những sinh hoạt vui chơi giải trí của người dân thời ấy vô cùng đơn giản – và có phần nghèo nàn. Thanh niên trai tráng thì tụ tập lại bên chén rượu đế cay xè, vừa uống vừa kể chuyện đời, chuyện lính, chuyện yêu đương dở dang thời chiến. Có nhóm lại bày chiếu ngồi ngoài sân, ngắm trăng, trò chuyện rôm rả cho quên đi cái nghèo, cái đói. Đám nhỏ thì chơi u, đánh chuyền, chạy nhảy quanh xóm đến mỏi chân rồi lăn ra ngủ.
Còn với những ai đã yên bề gia thất, thì cái thú vui tiêu khiển ban đêm lại quay về với "giải pháp giải trí nhà nghèo" nghĩa là sinh hoạt vợ chồng. Vậy nên cũng không lấy làm lạ khi hầu hết các gia đình thời ấy đều đông con; ba bốn đứa là chuyện thường, có nhà cả bảy tám miệng ăn cũng chẳng hiếm hoi gì. Đông con cũng là một cách để níu kéo hơi ấm, niềm vui và niềm hy vọng giữa những tháng ngày chật vật, mỏi mòn. Một thời khốn khó, nhưng chất chứa biết bao tình người.
Vào khoảng năm giờ rưỡi chiều, khi mặt trời vừa khuất sau rặng tre cuối xóm, ánh hoàng hôn nhạt dần trên mái lá, thì cả gia đình Nguyễn Văn Tân cũng đã quây quần đông đủ bên tấm li văn cũ kỹ (sập chiếu ngựa) đã bạc màu theo năm tháng để dùng bữa cơm tối.
Vì khuya nay phải dậy thật sớm để làm thịt heo, nên bữa cơm chiều hôm ấy được chuẩn bị chu đáo hơn thường lệ. Mâm cơm đạm bạc nhưng ấm cúng, dậy mùi thôn quê, với những món ăn dân dã mà thấm đượm hương vị của đất và người miền quê.
Nồi canh ngó môn nóng hổi, ngọt lịm vị rau vườn, ăn vào mát ruột. Đĩa lươn xào sả ớt b·ốc k·hói nghi ngút, thơm nồng, quyện mùi cay của ớt và mùi gừng, sả nức cả gian bếp nhỏ. Kế bên là tô chuối già hương om rau quế, món ăn giản dị nhưng đưa cơm vô cùng, thơm dịu mùi lá quế xanh mướt. Và tất nhiên, không thể thiếu món "cơm độn huyền thoại" cơm trộn khoai mì chính là biểu tượng của cả một thời kỳ bao cấp, khốn khó mà chan chứa nghĩa tình.
Ngay từ buổi trưa hôm nay, sau khi đưa hết số tiền tiết kiệm trong tay của mình đưa cho Nguyễn Văn Tân thì Phương Oanh cũng đã thu xếp hành trang, rảo bước sang nhà Hai Thích để cùng con nhỏ Út Lùn (con gái út của Hai Thích) chuẩn bị lên thị trấn. Vì vậy, trong bữa cơm chiều hôm đó, gian bếp nhỏ nhà Nguyễn Văn Tân thiếu vắng bóng dáng dịu dàng quen thuộc của Phương Oanh.
Dẫu sao đi nữa, Phương Oanh lúc này đã là công nhân cấp hai của xưởng may trên thị. Trong bối cảnh thời bao cấp, khi mà cuộc sống bấp bênh, gạo chợ nước sông, thì việc được gọi là "nhân viên bát sắt" tức làm việc cho nhà nước, hưởng lương tháng, được cấp tem phiếu lương thực, quần áo. Là điều không phải ai cũng có được. Đó không chỉ là một công việc ổn định mà còn là niềm mơ ước của biết bao cô gái trong làng, thậm chí là của cả những bậc cha mẹ mong muốn con mình "thoát ly" để đổi đời.
"Thằng Hai! Lát nữa ăn cơm xong thì mày ở nhà cho tao! Khuya nay phải dậy sớm phụ ba mày làm heo đó! Ba mày già cả rồi, một mình ổng không thể xoay xở nổi con heo lớn như vậy đâu!" tiếng mẹ hắn vang lên giữa bữa cơm chiều, ngữ điệu có phần nghiêm khắc, mang theo cả chút nặng nề quen thuộc.
Nguyễn Văn Tân không nói gì, chỉ khẽ cúi đầu, chậm rãi nhai từng miếng cơm độn khoai mì đang còn nóng hổi. Hắn biết mẹ nói vậy là vì lo lắng. Bao lần trước, vừa lùa xong chén cơm cuối cùng là hắn đã vội vã phóng thẳng lên xóm Tư Chia, nơi mà đám thanh niên trong xã tụ họp mỗi chiều tối để vui chơi.
Xóm Tư Chia, cái tên nghe bình dị nhưng lại là trung tâm văn hóa – kinh tế – giáo dục – y tế lớn nhất của cả vùng Xuân Thanh. Nơi đây không chỉ có trạm giao dịch, cung tiêu xã, mà còn sở hữu cả những tiện nghi hiếm hoi trong thời kỳ bao cấp: từ trạm y tế sơ sài đến lớp học, từ máy phát điện chạy bằng dầu D. O. cho đến quán cà phê, quầy radio công cộng và đặc biệt là chiếc bàn bi lắc biểu tượng của những buổi chiều giải trí rôm rả của đám trai trẻ.
Với Nguyễn Văn Tân và bao đứa bạn cùng trang lứa, được chạy lên xóm Tư Chia, đắm mình trong ánh sáng dầu lờ mờ, cười vang khi tranh từng bàn bi lắc, hay lặng im nghe tiếng radio phát bản tin buổi tối, là một niềm vui hiếm hoi giữa cái thời thiếu thốn trăm bề.
"Con biết rồi. . ." Nguyễn Văn Tân đáp, giọng trầm và chậm rãi, ánh mắt không rời khỏi chén cơm độn khoai mì trước mặt. Hắn vừa ăn, vừa khẽ gật đầu, như một cách ngầm xác nhận với mẹ rằng mình đã thấu hiểu điều bà dặn dò.
Không còn cái vẻ tưng tửng, ham chơi thường ngày, lúc này trên gương mặt hắn là một sự chín chắn lặng lẽ cái sự chín chắn mà chỉ khi gánh nặng gia đình đặt lên vai mới hình thành trong một người con trai đang tuổi trưởng thành. Bên ngoài, ánh chiều tà dần buông, bóng hoàng hôn nhuộm hồng những bờ rào tre và mái nhà tranh xơ xác của làng quê Đầu Rìu, như nhắc nhở mọi người rằng một ngày dài sắp khép lại, và một đêm vất vả nữa lại bắt đầu. . .
. . . .
Đúng 11 giờ khuya, khi cả xóm Đầu Rìu còn chìm sâu trong màn đêm tĩnh mịch, chỉ có tiếng côn trùng rả rích vọng về từ những cánh đồng xa, thì Ba của Nguyễn Văn Tân đã lục đục thức dậy. Dưới ánh lửa bập bùng leo lét của chiếc đèn dầu treo vội nơi mái bếp, ông lão ngồi lặng lẽ, tay cầm con dao nhọn hoắc dài hai tấc, bắt đầu công việc mài lưỡi dao trên viên đá mài đã nhẵn bóng theo năm tháng.
Từng nhịp mài kéo dài, khô khốc, vang vọng trong không gian yên ắng như những nhát cắt chầm chậm vào đêm đen. Gương mặt ông nghiêm nghị, ánh mắt chăm chú, nét mặt lộ vẻ từng trải và quyết đoán của một người đàn ông đã sống gần trọn đời với ruộng đồng, với chợ phiên, với chuyện chăn nuôi buôn bán.
Ở gian trong, mẹ hắn cũng đã thức dậy tự bao giờ. Bà không nói gì, lặng lẽ nhóm lửa nấu một nồi nước lớn nồi nước sôi này để chuẩn bị trụng lông heo. Trong ánh sáng vàng vọt hắt lên từ bếp củi, bóng dáng gầy gò của bà thoắt ẩn thoắt hiện, gợi lên hình ảnh một người mẹ tảo tần, quen thức khuya dậy sớm lo toan mọi việc không tên của một gia đình thuần nông giữa thời bao cấp.
Nghề g·iết heo, nói thì tưởng chừng đơn giản, nhưng thực chất lại là một công việc đòi hỏi sự gan dạ, kinh nghiệm và đôi tay vững vàng. Đây không phải là nghề mà bất kỳ ai cũng có thể đảm đương, bởi lẽ nó không chỉ là việc cầm dao kết liễu một con vật, mà còn là cả một quá trình đòi hỏi kỹ thuật, sức lực và cả tinh thần thép.
Từ lúc trói heo, ém heo cho đến khi ra tay dứt khoát, tất cả đều phải được thực hiện trong một khoảng thời gian ngắn, vừa nhanh gọn để tránh cho con vật đau đớn lâu, vừa chính xác để thu được lượng huyết và thịt đạt chuẩn. Người g·iết heo phải biết cách cắt đúng vị trí, sao cho máu chảy ra trọn vẹn, thịt không bị bầm, gân mạch không bị đứt nhầm. Một nhát dao lệch thôi là có thể làm hư cả con heo.
Không chỉ có thế, họ còn phải quen với mùi máu, với cảnh tượng lợn giãy c·hết những điều mà không phải ai cũng chịu đựng được. Chỉ những người từng trải, từng gánh vác công việc này qua nhiều năm tháng mới có thể giữ được sự điềm tĩnh và thành thạo cần thiết.
Trong thời bao cấp, nghề g·iết heo không chỉ là kế sinh nhai, mà còn là một dạng "nghề đặc thù" thường chỉ có một vài người trong làng đảm trách, và họ được xem như những người "tay dao lưỡi thớt" cứng cựa, gánh vác phần việc mà số đông phải e dè tránh né.
Vào thời kỳ bao cấp, khi cả nước còn chìm trong cảnh thiếu thốn trăm bề, đời sống về đêm ở các vùng quê như xã đội Đầu Rìu vốn đã đơn sơ lại càng thêm phần tẻ nhạt. Không điện, không ti-vi, không radio ba món xa xỉ mà dân làng chỉ dám mơ ước. Thứ ánh sáng duy nhất le lói trong những căn nhà tranh vách lá xiêu vẹo là ánh đèn dầu lập lòe, lay lắt như chính nhịp sống của người dân nơi đây. Những nhà nào khá giả một chút thì sắm được chiếc đèn măng-xông, ánh sáng mạnh hơn, trắng hơn nhưng cũng là thứ ánh sáng hiếm hoi, như ánh trăng trong đêm tối.
Còn đèn điện ư? Chuyện đó đối với dân quê thời ấy chẳng khác gì chuyện cổ tích. Có chăng thì chỉ vài khu vực trung tâm thị trấn mới may mắn có điện, nhưng cũng chỉ sáng được một đôi giờ vào buổi tối, rồi lại tắt ngúm trong im lặng.
Bởi vậy, những sinh hoạt vui chơi giải trí của người dân thời ấy vô cùng đơn giản – và có phần nghèo nàn. Thanh niên trai tráng thì tụ tập lại bên chén rượu đế cay xè, vừa uống vừa kể chuyện đời, chuyện lính, chuyện yêu đương dở dang thời chiến. Có nhóm lại bày chiếu ngồi ngoài sân, ngắm trăng, trò chuyện rôm rả cho quên đi cái nghèo, cái đói. Đám nhỏ thì chơi u, đánh chuyền, chạy nhảy quanh xóm đến mỏi chân rồi lăn ra ngủ.
Còn với những ai đã yên bề gia thất, thì cái thú vui tiêu khiển ban đêm lại quay về với "giải pháp giải trí nhà nghèo" nghĩa là sinh hoạt vợ chồng. Vậy nên cũng không lấy làm lạ khi hầu hết các gia đình thời ấy đều đông con; ba bốn đứa là chuyện thường, có nhà cả bảy tám miệng ăn cũng chẳng hiếm hoi gì. Đông con cũng là một cách để níu kéo hơi ấm, niềm vui và niềm hy vọng giữa những tháng ngày chật vật, mỏi mòn. Một thời khốn khó, nhưng chất chứa biết bao tình người.
Vào khoảng năm giờ rưỡi chiều, khi mặt trời vừa khuất sau rặng tre cuối xóm, ánh hoàng hôn nhạt dần trên mái lá, thì cả gia đình Nguyễn Văn Tân cũng đã quây quần đông đủ bên tấm li văn cũ kỹ (sập chiếu ngựa) đã bạc màu theo năm tháng để dùng bữa cơm tối.
Vì khuya nay phải dậy thật sớm để làm thịt heo, nên bữa cơm chiều hôm ấy được chuẩn bị chu đáo hơn thường lệ. Mâm cơm đạm bạc nhưng ấm cúng, dậy mùi thôn quê, với những món ăn dân dã mà thấm đượm hương vị của đất và người miền quê.
Nồi canh ngó môn nóng hổi, ngọt lịm vị rau vườn, ăn vào mát ruột. Đĩa lươn xào sả ớt b·ốc k·hói nghi ngút, thơm nồng, quyện mùi cay của ớt và mùi gừng, sả nức cả gian bếp nhỏ. Kế bên là tô chuối già hương om rau quế, món ăn giản dị nhưng đưa cơm vô cùng, thơm dịu mùi lá quế xanh mướt. Và tất nhiên, không thể thiếu món "cơm độn huyền thoại" cơm trộn khoai mì chính là biểu tượng của cả một thời kỳ bao cấp, khốn khó mà chan chứa nghĩa tình.
Ngay từ buổi trưa hôm nay, sau khi đưa hết số tiền tiết kiệm trong tay của mình đưa cho Nguyễn Văn Tân thì Phương Oanh cũng đã thu xếp hành trang, rảo bước sang nhà Hai Thích để cùng con nhỏ Út Lùn (con gái út của Hai Thích) chuẩn bị lên thị trấn. Vì vậy, trong bữa cơm chiều hôm đó, gian bếp nhỏ nhà Nguyễn Văn Tân thiếu vắng bóng dáng dịu dàng quen thuộc của Phương Oanh.
Dẫu sao đi nữa, Phương Oanh lúc này đã là công nhân cấp hai của xưởng may trên thị. Trong bối cảnh thời bao cấp, khi mà cuộc sống bấp bênh, gạo chợ nước sông, thì việc được gọi là "nhân viên bát sắt" tức làm việc cho nhà nước, hưởng lương tháng, được cấp tem phiếu lương thực, quần áo. Là điều không phải ai cũng có được. Đó không chỉ là một công việc ổn định mà còn là niềm mơ ước của biết bao cô gái trong làng, thậm chí là của cả những bậc cha mẹ mong muốn con mình "thoát ly" để đổi đời.
"Thằng Hai! Lát nữa ăn cơm xong thì mày ở nhà cho tao! Khuya nay phải dậy sớm phụ ba mày làm heo đó! Ba mày già cả rồi, một mình ổng không thể xoay xở nổi con heo lớn như vậy đâu!" tiếng mẹ hắn vang lên giữa bữa cơm chiều, ngữ điệu có phần nghiêm khắc, mang theo cả chút nặng nề quen thuộc.
Nguyễn Văn Tân không nói gì, chỉ khẽ cúi đầu, chậm rãi nhai từng miếng cơm độn khoai mì đang còn nóng hổi. Hắn biết mẹ nói vậy là vì lo lắng. Bao lần trước, vừa lùa xong chén cơm cuối cùng là hắn đã vội vã phóng thẳng lên xóm Tư Chia, nơi mà đám thanh niên trong xã tụ họp mỗi chiều tối để vui chơi.
Xóm Tư Chia, cái tên nghe bình dị nhưng lại là trung tâm văn hóa – kinh tế – giáo dục – y tế lớn nhất của cả vùng Xuân Thanh. Nơi đây không chỉ có trạm giao dịch, cung tiêu xã, mà còn sở hữu cả những tiện nghi hiếm hoi trong thời kỳ bao cấp: từ trạm y tế sơ sài đến lớp học, từ máy phát điện chạy bằng dầu D. O. cho đến quán cà phê, quầy radio công cộng và đặc biệt là chiếc bàn bi lắc biểu tượng của những buổi chiều giải trí rôm rả của đám trai trẻ.
Với Nguyễn Văn Tân và bao đứa bạn cùng trang lứa, được chạy lên xóm Tư Chia, đắm mình trong ánh sáng dầu lờ mờ, cười vang khi tranh từng bàn bi lắc, hay lặng im nghe tiếng radio phát bản tin buổi tối, là một niềm vui hiếm hoi giữa cái thời thiếu thốn trăm bề.
"Con biết rồi. . ." Nguyễn Văn Tân đáp, giọng trầm và chậm rãi, ánh mắt không rời khỏi chén cơm độn khoai mì trước mặt. Hắn vừa ăn, vừa khẽ gật đầu, như một cách ngầm xác nhận với mẹ rằng mình đã thấu hiểu điều bà dặn dò.
Không còn cái vẻ tưng tửng, ham chơi thường ngày, lúc này trên gương mặt hắn là một sự chín chắn lặng lẽ cái sự chín chắn mà chỉ khi gánh nặng gia đình đặt lên vai mới hình thành trong một người con trai đang tuổi trưởng thành. Bên ngoài, ánh chiều tà dần buông, bóng hoàng hôn nhuộm hồng những bờ rào tre và mái nhà tranh xơ xác của làng quê Đầu Rìu, như nhắc nhở mọi người rằng một ngày dài sắp khép lại, và một đêm vất vả nữa lại bắt đầu. . .
. . . .
Đúng 11 giờ khuya, khi cả xóm Đầu Rìu còn chìm sâu trong màn đêm tĩnh mịch, chỉ có tiếng côn trùng rả rích vọng về từ những cánh đồng xa, thì Ba của Nguyễn Văn Tân đã lục đục thức dậy. Dưới ánh lửa bập bùng leo lét của chiếc đèn dầu treo vội nơi mái bếp, ông lão ngồi lặng lẽ, tay cầm con dao nhọn hoắc dài hai tấc, bắt đầu công việc mài lưỡi dao trên viên đá mài đã nhẵn bóng theo năm tháng.
Từng nhịp mài kéo dài, khô khốc, vang vọng trong không gian yên ắng như những nhát cắt chầm chậm vào đêm đen. Gương mặt ông nghiêm nghị, ánh mắt chăm chú, nét mặt lộ vẻ từng trải và quyết đoán của một người đàn ông đã sống gần trọn đời với ruộng đồng, với chợ phiên, với chuyện chăn nuôi buôn bán.
Ở gian trong, mẹ hắn cũng đã thức dậy tự bao giờ. Bà không nói gì, lặng lẽ nhóm lửa nấu một nồi nước lớn nồi nước sôi này để chuẩn bị trụng lông heo. Trong ánh sáng vàng vọt hắt lên từ bếp củi, bóng dáng gầy gò của bà thoắt ẩn thoắt hiện, gợi lên hình ảnh một người mẹ tảo tần, quen thức khuya dậy sớm lo toan mọi việc không tên của một gia đình thuần nông giữa thời bao cấp.
Nghề g·iết heo, nói thì tưởng chừng đơn giản, nhưng thực chất lại là một công việc đòi hỏi sự gan dạ, kinh nghiệm và đôi tay vững vàng. Đây không phải là nghề mà bất kỳ ai cũng có thể đảm đương, bởi lẽ nó không chỉ là việc cầm dao kết liễu một con vật, mà còn là cả một quá trình đòi hỏi kỹ thuật, sức lực và cả tinh thần thép.
Từ lúc trói heo, ém heo cho đến khi ra tay dứt khoát, tất cả đều phải được thực hiện trong một khoảng thời gian ngắn, vừa nhanh gọn để tránh cho con vật đau đớn lâu, vừa chính xác để thu được lượng huyết và thịt đạt chuẩn. Người g·iết heo phải biết cách cắt đúng vị trí, sao cho máu chảy ra trọn vẹn, thịt không bị bầm, gân mạch không bị đứt nhầm. Một nhát dao lệch thôi là có thể làm hư cả con heo.
Không chỉ có thế, họ còn phải quen với mùi máu, với cảnh tượng lợn giãy c·hết những điều mà không phải ai cũng chịu đựng được. Chỉ những người từng trải, từng gánh vác công việc này qua nhiều năm tháng mới có thể giữ được sự điềm tĩnh và thành thạo cần thiết.
Trong thời bao cấp, nghề g·iết heo không chỉ là kế sinh nhai, mà còn là một dạng "nghề đặc thù" thường chỉ có một vài người trong làng đảm trách, và họ được xem như những người "tay dao lưỡi thớt" cứng cựa, gánh vác phần việc mà số đông phải e dè tránh né.
Tiến độ: 100%
21/21 chương
Tình trạng
Đã hoàn thành
Quốc gia
Unknown
Ngày đăng
26/04/2025
Thể loại
Tag liên quan