Chương 150: Nhàn Phúc
27/04/2025
10
8.0
Chương 147: Nhàn Phúc
Hà Lật lấy đồ ăn xong rất biết điều kiếm một cái bàn khác ngồi ăn, tránh không làm mất hứng mấy lão già xấu tính.
Ăn trưa xong ngồi uống nước chè xỉa răng thỏa mái rồi, Lý Thối mới đem ý tưởng viết Lam Sơn liệt truyện nói với Trình Hiền.
Thực ra ý tưởng này Lý Thối đã ấp ủ từ lâu, không phải bây giờ mới có.
Chuyện là năm đó Lê Ý chạy sang thỉnh giáo lão mấy chuyện từ thời tiền Hồ.
Thằng này đặt hàng loạt câu hỏi oái oăm cho lão, giả như chuyện Lê Long Đĩnh hành thích Lê Long Việt.
Lão thì cho rằng Lý Công Uẩn là người trung nghĩa, cả triều đường đều sợ oai Long Đĩnh chạy đi hết, duy chỉ có Công Uẩn ôm xác vua mà khóc.
Lê Ý chỉ nhếch mép cười khinh miệt nói:
“Lý Công Uẩn lúc đó là Điện tiền Chỉ huy sứ, nếu không có sự thông đồng của Công Uẩn thì nhúm quân quèn của Long Đĩnh trèo vào cung vua bằng cách nào?”
Lý Thối nghĩ lại thấy cũng đúng, ngay lúc lão định mở miệng đồng tình với thằng này thì nó lại bảo:
“Chưa chắc, lỡ không may Long Đĩnh có cách nào qua mặt Lý Công Uẩn, Công Uẩn ôm xác vua khóc là vì cảm thấy mình phụ lòng tin tưởng của vua thì sao?”
Lý Thối đến to cả đầu với thằng ôn con này, đang định cầm thước lên thực hiện “tình thương của thầy” thì thằng này mới cười nói:
“Con lấy ví dụ như thế để thầy thấy cái hại của lối viết sử xưa nay mà thôi! Khổng Tử sử dụng bút pháp xuân thu là vì thời đó chưa có giấy viết, mọi sự đều chép trên mai rùa, thẻ tre. Mà những thứ đó thì cồng kềnh, nặng nề. Vì thế Khổng phu tử buộc phải sử dụng thứ bút pháp cô đọng, trọng truyền ý chứ không tả chi tiết, cốt là để truyền đạt nhiều nội dung nhất với tài nguyên ít nhất. Thế mà hậu nhân lại lấy cái quyền biến của cổ nhân làm khuôn mẫu, ngàn năm sau có công cụ ký lục mới mỏng hơn, nhẹ hơn rồi vẫn cứ bất chấp cái tệ của lối viết sử cũ mà khư khư làm theo lối xưa. Khiến cho lịch sử lưu lại không được tường minh, hậu nhân tìm hiểu không được mạch lạc. Đấy là đi ngược lại cái quyền biến của thánh nhân vậy!”(1)
Lý Thối nghe lời này cực kỳ tâm tư, bút pháp Xuân thu - cách ghi chép này mang tính cô đọng cao nhưng giá trị khảo cứu thì thấp.
Đơn giản rằng vì chú trọng vào cô đọng, hàm súc ngay cả trong cách biểu đạt tâm tư của tác giả nên nó chỉ đơn giản là cho người đọc biết:
“Thời điểm A, địa điểm B, người C làm việc D, nói lời E.”
Cách ký lục này cơ bản là chỉ có người đọc biết là có một sự kiện như thế đã từng xảy ra chứ hoàn toàn không thể hiện hoàn cảnh, diễn biến chi tiết của sự kiện đó. Vì vậy, gây khó khăn cho giới nghiên cứu.
Giả dụ như trận Vạn Kiếp (1285) sử chỉ viết là:
“Hưng Đạo Vương giao chiến với Thoát Hoan và Lý Hằng ở Vạn Kiếp, đánh bại được, giặc c·hết đ·uối rất nhiều.”
Một trận đánh quan trọng như thế gói gọn trong hơn hai mươi chữ.
Đúng là sử cho biết Hưng Đạo Vương cả phá quân giặc ở Vạn Kiếp đấy.
Thế nhưng bối cảnh chiến lược, xu thế c·hiến t·ranh, quân số hai bên, chiến thuật hai bên, diễn biến trận chiến thế nào thì không một chữ nào miêu tả.
Chính bản thân lão đọc “Sử ký” của Lê Văn Hưu cũng không thể không nhíu mày.
Lại nói, cái hại của thói hoài cổ, tôn sùng bút pháp xuân thu bất chấp hoàn cảnh đâu chỉ ở lịch sử.
Ngay cả tứ thư ngũ kinh, người đời sau có những bậc đại trí, thấu hiểu ý chí thánh nhân rồi làm chú giải.
Nhưng vì tôn sùng cái bút pháp ấy, vô thức mà học theo hoặc cố tình sử dụng để chứng tỏ mình có học thức, khiến cho bọn học sinh đọc chú giải của những vị đại trí ấy mới nhận ra cũng chả khác gì lời lẽ hàm súc tối nghĩa của thánh nhân?
Sự học chưa được phổ cập trong thiên hạ sao lại không có một phần lý do ở thói xấu đó.
Năm đó lão quyết tâm ủng hộ, học tập theo cuốn “Đại học Chú giải” của Lê Ý, thực hiện chú giải kinh điển nho gia bằng bạch thoại cũng là vì lẽ ấy.
Nói như thế không phải là lão chê trách hay khinh ghét gì bút pháp Xuân thu, trải qua mấy ngàn năm phát triển, đến nay việc thực hành đọc - hiểu rồi tiến tới ký lục tri thức theo bút pháp này đã trở thành một loại nghệ thuật.
Lão cũng rất hưởng thụ thú vui tao nhã đó.
Thế nhưng việc nào ra việc đó, với sự phát triển của giấy viết, việc cô đọng từ ngữ như thế là không còn cần thiết trong học thuật nữa.
Nghệ thuật nên và chỉ nên tồn tại như là một thú vui bên lề mà thôi. Sử dụng nghệ thuật làm công cụ nghiên cứu học thuật, lưu trữ tri thức là hành động lạm quyền, vô trách nhiệm. Người nghiêm cẩn với học thuật như lão cảm thấy ghê tởm về hành động đó.
Nay lão quyết tâm làm người đi đầu, bắt đầu từ một bộ liệt truyện. Nếu sau khi hoàn thành bộ liệt truyện này mà trời xanh thương xót, cho lão thêm hai mươi, không … mười năm là đủ. Cho lão mười năm minh mẫn, lão sẽ đích thân chắp bút cho một bộ chính sử nữa làm tài liệu chi tiết cho hậu thế.
Trình Hiền nghe thấy ý tưởng này cũng hứng chí bừng bừng, hiếm thấy hiển hiện vẻ lão ngoan đồng cười nói.
- Bạn già, nếu có thể viết được một bộ quốc sử lưu truyền hậu thế thì công tích này to lớn lắm. Đến lúc đó lão phải chia sẻ cái công tích đó với “người khác” đấy, không được ăn quả lẻ đâu.
Lý Thối cười gằn.
- Muốn dây máu ăn phần? Đơn giản thôi, đem cháu gái của lão giả cho cháu trai ta. Đến khi đó hai nhà thành một, Lý Thối ta há lại tiếc một vị trí phụ biên với lão sao!
Trình Hiền nghe đến Lý thối để mắt đến cháu gái rượu của mình thì xù lông lên.
- Bằng vào đứa cháu trai không nên thân nhà lão cũng xứng?
Lý Ngang - đích trưởng tôn của Lý Thối mười phần là một thằng hoàn khố. Lúc ở Đông Kinh chọi chim đấu chó, đ·ánh b·ạc chơi gái không môn nào không tinh thông.
Quan hệ của lão cùng lão Lý đúng là tốt thật đấy, nhưng giao hòn ngọc quý trên tay mình cho tên đó thì có khác gì hoa nhài cắm bãi cứt trâu.
Lý Thối xoa tay cười nịnh nọt.
- Cháu trai của lão phu tuy là có một chút không nên thân, nhưng mấy tháng nay tu tập trong Quốc học tiến bộ như thế nào bạn già cũng thấy đấy. Là khả tạo chi tài á, cái này bạn già dù ghét cũng không thể phủ định chứ!
Trình Hiền nhíu mày, Lý Ngang đúng là có tiến bộ không tệ. Chỉ qua hai lần nguyệt khảo đã có tiến bộ kinh người.
Nếu như thằng này thực sự có thể “lãng tử quay đầu” thì nể mặt lão Lý chấp nhận hôn sự này không phải là không được.
Trình Hiền nhíu mày một lúc, mặt làm khó nói.
- Thôi được, nếu trong kỳ niên khảo năm sau thằng này có thể xếp hạng tổng hợp trước mười thì lão phu sẽ cho hắn một cơ hội.
Lý Thối nghe thế thì cả mừng.
Cháu trai lão tuy là hoàn khố một chút nhưng dầu gì cũng là dòng dõi thư hương, từ nhỏ đã cực kỳ thông tuệ, lại theo lão học hành nên vốn liếng thâm hậu. Chẳng qua những năm qua lão quanh năm xa nhà, thằng này gặp bạn xấu rủ rê mới bỏ bê học thức mà thôi. Nay được rèn luyện dưới ngọn roi “hiển đức” của Lê Lễ hẳn là có cơ hội hạn chế chỗ yếu, phát huy thế mạnh.
Lão chưa bao giờ hoài nghi năng lực của Lý Ngang, đích trưởng tôn nhà lão, chú định không phải người thường.
Bèn hướng Trình Hiền chắp tay đóng đinh chuyện này.
- Đây là lời Thuấn Du nói đấy nhé!
Trình Hiền xua tay tỏ vẻ đại khí.
- Hiền, khinh thường hai lời!
Hai lão vừa đi vừa nói chẳng mấy chốc đã trở về đến khu túc xá Quốc học Lam Sơn.
Ngay từ đầu, khu túc xá này đã được xây cất với mục đích rõ ràng dành cho đám giảng viên trong trường.
Vì vậy yêu cầu ngay từ đầu đã cực kỳ xa xỉ.
Trước cho đào một một con kênh nối với con sông đào mà triều đình đã đang cho đào từ trước (nay là Sông nhà Lê, đoạn qua xã Thọ Lâm/ Thọ Xuân/ Thanh Hóa) sau lại trồng cây ven kênh rồi ngay hai bên bờ xây cất mấy chục căn túc xá.
Gọi là túc xá nhưng vườn trước vườn sau, giả sơn hoa viên chả thiếu mẹ gì, đã rất tiệm cận cấp bậc dinh thự.
Lý Thối ban đầu hơi kháng cự, lão là đại nho, không ham mấy thứ này. Liền đem tâm tư của mình giải bày với Trình Hiền.
Ai ngờ Trình Hiền nghe thấy lời ấy thì cười khành khạch khuyên lão cứ an tâm mà đòi hỏi Lê Ý thêm nữa. Quốc học Lam Sơn cái gì cũng thiếu, thứ duy nhất không thiếu là tiền.
Xách cần câu ngồi xuống bên cạnh Trình Hiền, buông cần cảm nhận bầu không khí thanh lương chung quanh, Lý Thối không khỏi nhớ đến cái tâm tư tiết kiệm của mình năm đó, liền phì cười.
Đoạn ngả thân ra ghế may mắn nhìn Trình Hiền cười nói.
- Hà hà ...Năm đó may mà có bạn già khuyên lơn, mặt dày đi đòi hỏi thằng nhóc đó làm túc xá cho mấy lão đầu chúng ta thật hoành tráng, đầy đủ. Nếu không bây giờ cả nhà vợ con cháu chắt, gia nô phó dịch trong nhà lóc nhóc gần ba chục miệng không biết xoay xở như thế nào.
Trình Hiền cực kỳ vô sỉ vênh mặt lên trời tỏ vẻ “tất cả đều trong dự tính của ta” cười nói.
- Lại chả, lão phu chuẩn bị đem mạng già cùng quan hệ của mình cống hiến cho trường Quốc học, chả lẽ thằng ranh con đó lại tiếc với lũ chúng ta một căn túc xá nho nhỏ hay sao! Năm đó mà có nửa điểm ngại ngần thì nay sao có thể thụ hưởng nhàn phúc như thế này!
Chú thích:
(1) Bút pháp xuân thu chú trọng truyền tải sự kiện bằng ít từ ngữ nhất có thể. Trong đó, tác giả sẽ nghiêm cẩn mà khéo léo bày tỏ thái độ của mình với nhân vật, sự kiện qua biện pháp tu từ chứ tuyệt không sử dụng ngôn từ thẳng thắn.
Ban đầu nó là một dạng tiết kiệm tài nguyên (vì dành ra vài dòng để giải thích ngữ nghĩa cho tường minh hay biểu đạt yêu ghét của bản thân là lãng phí không thể chấp nhận được ở thời kỳ chưa có giấy viết) sau này giới nho sinh coi đây là cao nhã, tích cực học theo, kinh điển nho gia mấy ngàn năm đều dùng lối viết ấy cả.
Tri thức vốn nên tường minh, mạch lạc lại trở nên âm u, tối nghĩa có một phần không nhỏ là vì thói ấy vậy. Mạt thay!
Hà Lật lấy đồ ăn xong rất biết điều kiếm một cái bàn khác ngồi ăn, tránh không làm mất hứng mấy lão già xấu tính.
Ăn trưa xong ngồi uống nước chè xỉa răng thỏa mái rồi, Lý Thối mới đem ý tưởng viết Lam Sơn liệt truyện nói với Trình Hiền.
Thực ra ý tưởng này Lý Thối đã ấp ủ từ lâu, không phải bây giờ mới có.
Chuyện là năm đó Lê Ý chạy sang thỉnh giáo lão mấy chuyện từ thời tiền Hồ.
Thằng này đặt hàng loạt câu hỏi oái oăm cho lão, giả như chuyện Lê Long Đĩnh hành thích Lê Long Việt.
Lão thì cho rằng Lý Công Uẩn là người trung nghĩa, cả triều đường đều sợ oai Long Đĩnh chạy đi hết, duy chỉ có Công Uẩn ôm xác vua mà khóc.
Lê Ý chỉ nhếch mép cười khinh miệt nói:
“Lý Công Uẩn lúc đó là Điện tiền Chỉ huy sứ, nếu không có sự thông đồng của Công Uẩn thì nhúm quân quèn của Long Đĩnh trèo vào cung vua bằng cách nào?”
Lý Thối nghĩ lại thấy cũng đúng, ngay lúc lão định mở miệng đồng tình với thằng này thì nó lại bảo:
“Chưa chắc, lỡ không may Long Đĩnh có cách nào qua mặt Lý Công Uẩn, Công Uẩn ôm xác vua khóc là vì cảm thấy mình phụ lòng tin tưởng của vua thì sao?”
Lý Thối đến to cả đầu với thằng ôn con này, đang định cầm thước lên thực hiện “tình thương của thầy” thì thằng này mới cười nói:
“Con lấy ví dụ như thế để thầy thấy cái hại của lối viết sử xưa nay mà thôi! Khổng Tử sử dụng bút pháp xuân thu là vì thời đó chưa có giấy viết, mọi sự đều chép trên mai rùa, thẻ tre. Mà những thứ đó thì cồng kềnh, nặng nề. Vì thế Khổng phu tử buộc phải sử dụng thứ bút pháp cô đọng, trọng truyền ý chứ không tả chi tiết, cốt là để truyền đạt nhiều nội dung nhất với tài nguyên ít nhất. Thế mà hậu nhân lại lấy cái quyền biến của cổ nhân làm khuôn mẫu, ngàn năm sau có công cụ ký lục mới mỏng hơn, nhẹ hơn rồi vẫn cứ bất chấp cái tệ của lối viết sử cũ mà khư khư làm theo lối xưa. Khiến cho lịch sử lưu lại không được tường minh, hậu nhân tìm hiểu không được mạch lạc. Đấy là đi ngược lại cái quyền biến của thánh nhân vậy!”(1)
Lý Thối nghe lời này cực kỳ tâm tư, bút pháp Xuân thu - cách ghi chép này mang tính cô đọng cao nhưng giá trị khảo cứu thì thấp.
Đơn giản rằng vì chú trọng vào cô đọng, hàm súc ngay cả trong cách biểu đạt tâm tư của tác giả nên nó chỉ đơn giản là cho người đọc biết:
“Thời điểm A, địa điểm B, người C làm việc D, nói lời E.”
Cách ký lục này cơ bản là chỉ có người đọc biết là có một sự kiện như thế đã từng xảy ra chứ hoàn toàn không thể hiện hoàn cảnh, diễn biến chi tiết của sự kiện đó. Vì vậy, gây khó khăn cho giới nghiên cứu.
Giả dụ như trận Vạn Kiếp (1285) sử chỉ viết là:
“Hưng Đạo Vương giao chiến với Thoát Hoan và Lý Hằng ở Vạn Kiếp, đánh bại được, giặc c·hết đ·uối rất nhiều.”
Một trận đánh quan trọng như thế gói gọn trong hơn hai mươi chữ.
Đúng là sử cho biết Hưng Đạo Vương cả phá quân giặc ở Vạn Kiếp đấy.
Thế nhưng bối cảnh chiến lược, xu thế c·hiến t·ranh, quân số hai bên, chiến thuật hai bên, diễn biến trận chiến thế nào thì không một chữ nào miêu tả.
Chính bản thân lão đọc “Sử ký” của Lê Văn Hưu cũng không thể không nhíu mày.
Lại nói, cái hại của thói hoài cổ, tôn sùng bút pháp xuân thu bất chấp hoàn cảnh đâu chỉ ở lịch sử.
Ngay cả tứ thư ngũ kinh, người đời sau có những bậc đại trí, thấu hiểu ý chí thánh nhân rồi làm chú giải.
Nhưng vì tôn sùng cái bút pháp ấy, vô thức mà học theo hoặc cố tình sử dụng để chứng tỏ mình có học thức, khiến cho bọn học sinh đọc chú giải của những vị đại trí ấy mới nhận ra cũng chả khác gì lời lẽ hàm súc tối nghĩa của thánh nhân?
Sự học chưa được phổ cập trong thiên hạ sao lại không có một phần lý do ở thói xấu đó.
Năm đó lão quyết tâm ủng hộ, học tập theo cuốn “Đại học Chú giải” của Lê Ý, thực hiện chú giải kinh điển nho gia bằng bạch thoại cũng là vì lẽ ấy.
Nói như thế không phải là lão chê trách hay khinh ghét gì bút pháp Xuân thu, trải qua mấy ngàn năm phát triển, đến nay việc thực hành đọc - hiểu rồi tiến tới ký lục tri thức theo bút pháp này đã trở thành một loại nghệ thuật.
Lão cũng rất hưởng thụ thú vui tao nhã đó.
Thế nhưng việc nào ra việc đó, với sự phát triển của giấy viết, việc cô đọng từ ngữ như thế là không còn cần thiết trong học thuật nữa.
Nghệ thuật nên và chỉ nên tồn tại như là một thú vui bên lề mà thôi. Sử dụng nghệ thuật làm công cụ nghiên cứu học thuật, lưu trữ tri thức là hành động lạm quyền, vô trách nhiệm. Người nghiêm cẩn với học thuật như lão cảm thấy ghê tởm về hành động đó.
Nay lão quyết tâm làm người đi đầu, bắt đầu từ một bộ liệt truyện. Nếu sau khi hoàn thành bộ liệt truyện này mà trời xanh thương xót, cho lão thêm hai mươi, không … mười năm là đủ. Cho lão mười năm minh mẫn, lão sẽ đích thân chắp bút cho một bộ chính sử nữa làm tài liệu chi tiết cho hậu thế.
Trình Hiền nghe thấy ý tưởng này cũng hứng chí bừng bừng, hiếm thấy hiển hiện vẻ lão ngoan đồng cười nói.
- Bạn già, nếu có thể viết được một bộ quốc sử lưu truyền hậu thế thì công tích này to lớn lắm. Đến lúc đó lão phải chia sẻ cái công tích đó với “người khác” đấy, không được ăn quả lẻ đâu.
Lý Thối cười gằn.
- Muốn dây máu ăn phần? Đơn giản thôi, đem cháu gái của lão giả cho cháu trai ta. Đến khi đó hai nhà thành một, Lý Thối ta há lại tiếc một vị trí phụ biên với lão sao!
Trình Hiền nghe đến Lý thối để mắt đến cháu gái rượu của mình thì xù lông lên.
- Bằng vào đứa cháu trai không nên thân nhà lão cũng xứng?
Lý Ngang - đích trưởng tôn của Lý Thối mười phần là một thằng hoàn khố. Lúc ở Đông Kinh chọi chim đấu chó, đ·ánh b·ạc chơi gái không môn nào không tinh thông.
Quan hệ của lão cùng lão Lý đúng là tốt thật đấy, nhưng giao hòn ngọc quý trên tay mình cho tên đó thì có khác gì hoa nhài cắm bãi cứt trâu.
Lý Thối xoa tay cười nịnh nọt.
- Cháu trai của lão phu tuy là có một chút không nên thân, nhưng mấy tháng nay tu tập trong Quốc học tiến bộ như thế nào bạn già cũng thấy đấy. Là khả tạo chi tài á, cái này bạn già dù ghét cũng không thể phủ định chứ!
Trình Hiền nhíu mày, Lý Ngang đúng là có tiến bộ không tệ. Chỉ qua hai lần nguyệt khảo đã có tiến bộ kinh người.
Nếu như thằng này thực sự có thể “lãng tử quay đầu” thì nể mặt lão Lý chấp nhận hôn sự này không phải là không được.
Trình Hiền nhíu mày một lúc, mặt làm khó nói.
- Thôi được, nếu trong kỳ niên khảo năm sau thằng này có thể xếp hạng tổng hợp trước mười thì lão phu sẽ cho hắn một cơ hội.
Lý Thối nghe thế thì cả mừng.
Cháu trai lão tuy là hoàn khố một chút nhưng dầu gì cũng là dòng dõi thư hương, từ nhỏ đã cực kỳ thông tuệ, lại theo lão học hành nên vốn liếng thâm hậu. Chẳng qua những năm qua lão quanh năm xa nhà, thằng này gặp bạn xấu rủ rê mới bỏ bê học thức mà thôi. Nay được rèn luyện dưới ngọn roi “hiển đức” của Lê Lễ hẳn là có cơ hội hạn chế chỗ yếu, phát huy thế mạnh.
Lão chưa bao giờ hoài nghi năng lực của Lý Ngang, đích trưởng tôn nhà lão, chú định không phải người thường.
Bèn hướng Trình Hiền chắp tay đóng đinh chuyện này.
- Đây là lời Thuấn Du nói đấy nhé!
Trình Hiền xua tay tỏ vẻ đại khí.
- Hiền, khinh thường hai lời!
Hai lão vừa đi vừa nói chẳng mấy chốc đã trở về đến khu túc xá Quốc học Lam Sơn.
Ngay từ đầu, khu túc xá này đã được xây cất với mục đích rõ ràng dành cho đám giảng viên trong trường.
Vì vậy yêu cầu ngay từ đầu đã cực kỳ xa xỉ.
Trước cho đào một một con kênh nối với con sông đào mà triều đình đã đang cho đào từ trước (nay là Sông nhà Lê, đoạn qua xã Thọ Lâm/ Thọ Xuân/ Thanh Hóa) sau lại trồng cây ven kênh rồi ngay hai bên bờ xây cất mấy chục căn túc xá.
Gọi là túc xá nhưng vườn trước vườn sau, giả sơn hoa viên chả thiếu mẹ gì, đã rất tiệm cận cấp bậc dinh thự.
Lý Thối ban đầu hơi kháng cự, lão là đại nho, không ham mấy thứ này. Liền đem tâm tư của mình giải bày với Trình Hiền.
Ai ngờ Trình Hiền nghe thấy lời ấy thì cười khành khạch khuyên lão cứ an tâm mà đòi hỏi Lê Ý thêm nữa. Quốc học Lam Sơn cái gì cũng thiếu, thứ duy nhất không thiếu là tiền.
Xách cần câu ngồi xuống bên cạnh Trình Hiền, buông cần cảm nhận bầu không khí thanh lương chung quanh, Lý Thối không khỏi nhớ đến cái tâm tư tiết kiệm của mình năm đó, liền phì cười.
Đoạn ngả thân ra ghế may mắn nhìn Trình Hiền cười nói.
- Hà hà ...Năm đó may mà có bạn già khuyên lơn, mặt dày đi đòi hỏi thằng nhóc đó làm túc xá cho mấy lão đầu chúng ta thật hoành tráng, đầy đủ. Nếu không bây giờ cả nhà vợ con cháu chắt, gia nô phó dịch trong nhà lóc nhóc gần ba chục miệng không biết xoay xở như thế nào.
Trình Hiền cực kỳ vô sỉ vênh mặt lên trời tỏ vẻ “tất cả đều trong dự tính của ta” cười nói.
- Lại chả, lão phu chuẩn bị đem mạng già cùng quan hệ của mình cống hiến cho trường Quốc học, chả lẽ thằng ranh con đó lại tiếc với lũ chúng ta một căn túc xá nho nhỏ hay sao! Năm đó mà có nửa điểm ngại ngần thì nay sao có thể thụ hưởng nhàn phúc như thế này!
Chú thích:
(1) Bút pháp xuân thu chú trọng truyền tải sự kiện bằng ít từ ngữ nhất có thể. Trong đó, tác giả sẽ nghiêm cẩn mà khéo léo bày tỏ thái độ của mình với nhân vật, sự kiện qua biện pháp tu từ chứ tuyệt không sử dụng ngôn từ thẳng thắn.
Ban đầu nó là một dạng tiết kiệm tài nguyên (vì dành ra vài dòng để giải thích ngữ nghĩa cho tường minh hay biểu đạt yêu ghét của bản thân là lãng phí không thể chấp nhận được ở thời kỳ chưa có giấy viết) sau này giới nho sinh coi đây là cao nhã, tích cực học theo, kinh điển nho gia mấy ngàn năm đều dùng lối viết ấy cả.
Tri thức vốn nên tường minh, mạch lạc lại trở nên âm u, tối nghĩa có một phần không nhỏ là vì thói ấy vậy. Mạt thay!
Tiến độ: 100%
202/202 chương
Tình trạng
Đã hoàn thành
Quốc gia
Unknown
Ngày đăng
27/04/2025
Thể loại
Tag liên quan